headertvtc new


   Hôm nay Thứ bảy, 20/04/2024 - Ngày 12 Tháng 3 Năm Giáp Thìn - PL 2565 “Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê, Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn”. - (Pháp cú kệ 29, HT.Thích Minh Châu dịch)
tvtc2  Mongxuan
 Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam Thế Kỷ 20-21

Thiền Sư HUYỀN QUANG - Tác Phẩm

 1. CÚC HOA

          Vong thân vong thế dĩ đô vong

          Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương

                                                  Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật

                                                  Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.

Dịch:  HOA CÚC

          Bẵng quên thân thế chẳng hề vương

          Lặng lẽ ngồi lâu lạnh thấu giường

          Năm hết trong non không sẵn lịch

          Nhìn xem cúc nở biết trùng dương (Ngày 9 tháng 9 âm lịch gọi là tiết trùng dương)

2. SƠN VŨ

          Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha

          Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la

          Dĩ thị thành thiền tâm nhất phiến

          Cung thanh tức tức vị thùy đa.

Dịch:  CHÙA NÚI

          Gió thu đêm vắng thổi hiên ngoài

          Chùa núi im lìm gối cỏ may

          Đã được thành thiền tâm một khối

          Rè rè tiếng dế gọi kêu ai ?

3. THẠCH THẤT

          Bán gian thạch thất hòa vân trụ

          Nhất lĩnh thuế y kinh tuế hàn

          Tăng tại thiền sàng kinh tại án

          Lô tàn cốt đốt nhật tam can.

Dịch: THẤT ĐÁ

          Nửa gian nhà đá lẫn trong mây

          Một mảnh áo lông trải tháng ngày

          Tăng ở trên giường, kinh tại án

          Lò hương tàn lụn, mặt trời lên.

4. TẶNG SĨ ĐỒ TỬ ĐỆ

          Phú quí phù vân trì vị đáo

          Quang âm lưu thủy cấp tương thôi

          Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ

          Nhất tháp tùng phong, trà nhất bôi.

Dịch:  TẶËNG CON EM LÀM QUAN

          Giàu sang mây nổi đến dần dà

          Ngày tháng trôi nhanh chẳng đợi mà

         Chi bằng tiểu ẩn nơi rừng suối

         (Tiểu ẩn là ở nơi rừng núi, trung ẩn là làm quan nhỏ, đại ẩn là ở triều đình.)

          Một giường gió mát, một chung trà.

5. AN TỬ SƠN CƯ AM

          Am bức thanh tiêu lãnh

          Môn khai vân thượng tầng

          Dĩ can Long Động nhật

          Do xích Hổ Khê băng.

          Bảo chuyết vô dư sách

          Phù suy hữu sấu đằng

          Trúc Lâm đa túc điểu

          Quá bán bạn nhàn tăng.

Dịch:  Ở AM YÊN TỬ

          Cao ngất am lạnh lẽo

          Cửa mở tận từng mây

          Mặt trời soi Long Động

          Tuyết dầy che Hổ Khê

          Vụng về không mưu lược

          Nương gậy đỡ thân gầy

          Trúc Lâm nhiều chim ngủ

          Quá nửa bạn với thầy.

6. NHÂN SỰ ĐỀ CỨU LAN TỰ

          Đức bạc thường tàm kế Tổ đăng

          Không giao Hàn Thập khởi oan tăng.

          Tranh như trục bạn qui sơn khứ,

          Điệp chướng trùng sơn vạn vạn tằng.

Dịch:  NHÂN VIỆC ĐỀ CHÙA CỨU LAN

          Đức mỏng thẹn mình nối Tổ đăng

          Luống cho Hàn, Thập dấy hờn căm.

          Chi bằng theo bạn về non quách

          Núi chất chập chùng muôn vạn tầng.

*
*  *

7. XUÂN NHẬT TỨC SỰ

          Nhị bát giai nhân thích tú trì,

          Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.

          Khả liên vô hạn thương xuân ý,

          Tận tại đình châm bất ngữ thì.

Dịch:  TỨC CẢNH NGÀY XUÂN

          Thêu gấm thưa tay dáng mỹ nhân

          Líu lo oanh hót, khóm hoa gần.

          Đáng thương vô hạn, thương xuân ý

          Chỉ tại dừng kim, chẳng mở lời.

LỜI NGƯỜI SOẠN: Bài thơ này khiến nhiều học giả hiểu lầm: Tác giả là một thiền sư, lại là Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mà còn tình cảm dồi dào ướt át như thế, thì làm sao được giải thoát? Song, nhận xét như vậy là một hiểu lầm đáng tiếc. Bởi vì tác giả tả cảnh xuân, nên mượn hình ảnh người con gái đẹp, hoa nở, chim hót để làm nổi bật ngày xuân. Nhưng đến kết thúc, tác giả nói lên lòng thương vô hạn của mình, chính là khi “dừng kim, không nói”. Đâu không phải câu “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”. Bặt đường ngôn ngữ, dứt lối tâm hành - đây là chỗ kết quả của người tu thiền. Người tu đến đây mới giải thoát đường sanh tử, mà không thương tha thiết sao được? Chỗ này chính là mùa xuân bất tận của người tu.

*
*  *

Sư còn làm phú chữ nôm, như bài Vịnh Vân Yên Tử phú:

          Buông niềm trần tục;

          Náu tới Vân Yên.

          Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy.

          Gió tiên đưa đôi bước thần tiên.

          Bầu đủng đỉnh giang hòa thế giới;

          Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên.

          Đất phúc địa nhận xem luống kể,

          Kể bao nhiêu dư trăm phúc địa;

          Trời Thiền thiên thập thu thửa lạ,

          Lạ hơn ba mươi sáu Thiền thiên.

Thấy đây:

          Đất tựa vàng liền;

          Cảnh bằng ngọc đúc.

          Mây năm thức che phủ đền Nghiêu;

          Núi nghìn tầng quanh co đường Thục.

          La đá tầng thang dốc, một hòn ướm vịn một hòn;

          Nước suối chảy làn sâu, đòi khúc những dò đòi khúc.

          Cỏ chiều gió lướt, dợm vui vui;

          Non tạnh mưa dầm, màu thúc thúc.

          Ngàn cây phơi cánh phượng,

          Vườn thượng uyển đóa tốt rờn rờn;

          Hang nước tưới hàm rồng, nhả ly châu hột săn mục mục.

          Nhựa đông hổ phách, sáng khắp rừng thông;

          Da điểm đồi mồi, giống hòa vườn trúc.

          Gác vẽ tiếng bồ lao thốc, gió vật đoành đoành,

          Đền ngọc phiến bối diệp che, mưa tuôn túc túc.

          Cảnh tốt và lành;

          Đồ tựa vẽ tranh.

          Chỉn ấy trời thiêng mẽ khéo

          Nhèn chi vua Bụt tu hành.

          Hồ sen trương tán lục;

          Suối trúc bấm đàn tranh.

          Ngự sử mai hai hàng chầu rập;

          Trượng phu tùng mấy chạnh phò quanh.

          Phỉ thúy sắp hai hàng loan phượng;

          Tử vi bày liệt vị công khanh.

          Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng;

          Vượn bồng con kề cửa nghe kinh.

          Nương am vắng Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu, mây nhè nhẹ.

Kề song thưa thầy ngồi thiền định, trăng vặc vặc, núi xanh xanh .         

Huống chi,

Vân thủy bằng lòng;

Yên hà phải thú.

Vui thay cảnh khác cảnh hoàng kim;

Trọng thay đường hơn đường cẩm tú.

Phân ân ái, am Não am Long;

Dứt nhân duyên, làng Nường làng Mụ.

Mặc ca-sa nằm trướng giấy, màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương;

Quên ngọc thực bỏ hương giao, cắp nạnh cà một vò, tương một hũ.

Chặp tiết dương tiếng nhạc dõi truyền;

Voi la đá tính từ chẳng đố.

Xem phong cảnh hơn cảnh Bà Roi;

Phóng tay cầu chưng cầu Thằng Ngụ.

Bao nhiêu phong nguyệt, vào cõi vô tâm;

Chơi dấu nước non, dưỡng đời thánh thọ.

Ta nay,

Ngồi đỉnh Vân Tiêu;

Cỡi chơi Cánh Diều.

Coi Đông sơn tựa hòn kim lục;

Xem Đông hải tựa miệng con ngao.

Nức đài lan nghĩ hương đan quế;

Nghe Hằng Nga thiết khúc tiêu thiều.

Quán thất bảo vẽ bao Bụt hiện;

Áo lục thù tiếng gió tiên phiêu.

Thầy tu trước đã lên Phật quả;

Tiểu tu sau còn vị Tỳ-kheo.

          . . .

Kệ rằng:

          Rũ không thay thảy ánh phồn hoa,

          Lấy chốn thiền lâm làm cửa nhà.

          Khuya sớm sáng choang đèn bát-nhã,

          Hôm mai rửa sạch nước ma-ha.

          Lòng thiền vằng vặc trăng soi giại,

          Thế sự hiu hiu gió thổi qua.

          Cốc được tính ta nên Bụt thực,

          Ngại chi non nước cảnh đường xa.

                                                  (Huệ Chi)

[ Quay lại ]